Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cùng với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, tạo ra lợi nhuận và đóng góp thuế thì các doanh nghiệp cũng đang thải ra một lượng khí nhà kính vào trong khí quyển góp phần làm cho Trái đất nóng lên và gây nên những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Chính vì vậy "Ai gây ô nhiễm người đó phải trả tiền" đã trở thành một luật chơi mới của thương mại toàn cầu. Khi hàng rào hàng hạch rác thải đang càng được áp dụng, để thích ứng được những qui định mới này, các doanh nghiệp Việt làm gì để giảm rác thải, hay nói cách khác là giảm dấu chân carbon của chính mình? Trong hành trình không mấy dễ dàng này, họ phải đối mặt với những khó khăn và thách thức gì?
Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2022, số đo "dấu chân carbon" (tổng lượng khí nhà kính được tạo ra bởi hoạt động của con người) của Việt Nam là khoảng 344 triệu tấn CO2/năm. Con số này không hề nhỏ, vì nó xếp thứ 17 trên toàn cầu. "Dấu chân" của chúng ta đang to và đậm hơn rất nhiều quốc gia khác trong khu vực. Do đó giảm dấu chân carbon hay nói cách khác là giảm phát thải là yêu cầu không thể trì hoãn, đặc biệt là với các doanh nghiệp. Tuy nhiên đây không phải là việc dễ, nói muốn là có thể làm được ngay.
Không thể phủ nhận những lợi ích kinh tế mà các làng nghề đã và đang đem lại, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhưng trong quá trình phát triển, khá nhiều làng nghề ở nước ta đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí, rác thải, nhất là nước thải… ngày một gia tăng. Ô nhiễm đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khỏe người dân. Giải quyết tình trạng ô nhiễm làng nghề vẫn là bài toán khó, chưa có lời giải.
Làng nghề có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, sự phát triển của các làng nghề cũng gây ra nhiều hệ lụy về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng. Xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là một vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay. Thời gian qua, một số mô hình xử lý nước thải, khí thải làng nghề đã được thực hiện tại các địa phương.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (hay còn gọi là EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau. Vậy hiện các doanh nghiệp của Việt Nam đang thực hiện quy định mới này như thế nào? Họ có gặp phải khó khăn và vướng mắc gì trong quá trình thực thi hay không?
Việt Nam mặc dù chưa phải quốc gia thiếu nước nghiêm trọng nhưng tài nguyên nước đang ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững, nguy cơ suy thoái, cạn kiệt có chiều hướng gia tăng, cùng những tác động của biến đổi khí hậu. Việc khai thác nguồn nước chưa được kiểm soát chặt chẽ, cùng tình trạng ô nhiễm nước mặt ngày càng tăng cả về mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng… Cần phải làm gì để bảo vệ, cải thiện, quản lý và phát triển bền vững nguồn nước? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình COP26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Rác thải nhựa vẫn đang là vấn đề lớn nhất được quan tâm trên toàn cầu, với sản lượng nhựa tăng gấp đôi trong vòng 20 năm. Ô nhiễm nhựa không khác gì một tai họa. Nhiều sản phẩm nhựa có thể tồn tại trong môi trường vĩnh viễn, hủy hoại hệ sinh thái và sự sống của chính con người. Ở nước ta, phong trào chống rác thải nhựa đã được phát động từ gần 5 năm trước. Nhưng cuộc chiến với rác nhựa vẫn gặp nhiều khó khăn, từ kêu gọi, vận động và ban hành chính sách. Tình trạng ô nhiễm nhựa đang lên mức đáng báo động. Vậy cần phải làm gì để đẩy lùi “ô nhiễm trắng”?
Hiện thực hóa cam kết “Net Zero", năm 2023, lần đầu tiên tại Việt Nam, 1.912 cơ sở có phát thải khí nhà kính lớn đã thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu hoạt động phục vụ kiểm kê KNK cấp quốc gia theo quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường. Sau hơn 1 năm triển khai, bên cạnh một số kết quả bước đầu, thì những khó khăn thách thức đặt ra với doanh nghiệp trong việc kiểm kê khí nhà kính là không hề nhỏ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí đang là vấn đề nan giải của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có đến 92% dân số hiện đang sống trong bầu không khí bị ô nhiễm. Điều đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người và môi trường tự nhiên. Cả nước hiện có gần 4,5 triệu ô tô và khoảng 60 triệu mô tô, xe gắn máy đang thải khí và bụi mịn gây ô nhiễm môi trường. Điều đáng nói, hiện nay, chúng ta vẫn chưa thể kiểm soát được khí thải xe máy. Vậy cần lời giải nào cho bài toán ô nhiễm không khí?
Túi nilon luôn là mặt hàng được nhiều người sử dụng và sử dụng nó một cách tràn lan vì giá quá rẻ. Mặt hàng nào người bán cũng sẵn sàng cho người mua vài ba cái để đựng đồ, có khi chỉ là để đựng vài cọng hành, vài quả cà chua…Nguyên nhân chính của việc túi nilon quá rẻ được các chuyên gia cho là vì bị đánh thuế thấp, mức thuế như hiện nay chưa thể thay đổi hành vi người dùng.
Ở nước ta, túi nilon là vật dụng vẫn được sử dụng tràn lan như một thói quen khó bỏ. Nó có tiện lợi không? Câu trả lời chắc chắn là có. Nhưng đi cùng với sự tiện lợi đó lại là thảm họa ô nhiễm môi trường. Để hạn chế túi nilon, áp thuế bảo vệ môi trường với mặt hàng này là một trong những giải pháp đã được thực hiện. Nhưng chính sách này có vẻ 'bất lực' khi giá bán nhiều loại túi nilông còn thấp hơn mức thuế đánh vào nó.
Giao thông vận tải là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với quốc gia có nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sang sử dụng các phương tiện giao thông xanh thân thiện với môi trường được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Cần phải có thêm những chính sách gì để đẩy nhanh quá trình này?Đây là chủ đề chính của chương trình COP26 ngày hôm nay.
Tại hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng và quá tải hạ tầng giao thông. Để hạn chế thực trạng này, việc phát triển giao thông xanh được coi là chìa khóa, là giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề ô nhiễm của đô thị, cải thiện chất lượng không khí một cách bền vững. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Và trong quá trình chuyển đổi sang các phương tiện giao thông xanh, chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nào?
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến đời sống của con người, trong đó có tình trạng xâm nhập mặn… Là quốc gia có trên 3.000km bờ biển, tập trung hàng triệu người sinh sống và khai thác các nguồn lợi từ biển, xâm nhập mặn diễn ra tại hầu hết các địa phương ven biển, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân, đặc biệt tại những cửa sông đổ ra biển.
Phát triển kinh tế tuần hoàn đang là xu thế để phát triển kinh tế xanh và bền vững. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đã có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn như tạo và dùng khí đốt từ chất thải, nước thải trong chăn nuôi, trồng trọt; kết hợp trồng trọt, chăn nuôi thuỷ sản; mô hình nông lâm kết hợp; mô hình vườn, rừng; mô hình tuần hoàn lấy phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm chất xúc tác hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị khác.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng. Một trong những công cụ hiệu quả để đo lường và giảm lượng khí nhà kính gây ra từ hoạt động của con người là tín chỉ carbon rừng. Tín chỉ carbon rừng là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO2) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO2) tương đương.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam trong lĩnh vực lâm nghiệp đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.200 tỉ đồng).
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng nhanh chóng, những năm gần đây, du lịch xanh ngày càng được quan tâm và trở thành định hướng phát triển quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục thị trường đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Phát triển du lịch xanh là chìa khóa để phát triển du lịch có trách nhiệm đảm bảo du lịch bền vững.
Trong cuộc chiến chống Biến đổi khí hậu, du lịch xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu trên toàn cầu, đồng thời đó cũng là một cơ hội để bảo vệ tài nguyên tự nhiên, duy trì cân bằng môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Việt Nam, với vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời và di sản văn hóa độc đáo, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch xanh. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam cần đối mặt với những thách thức và cần có những giải pháp đúng đắn.
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Để giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường, phục hồi chất lượng môi trường làng nghề, thì nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và chủ sản xuất về vai trò của môi trường và tầm quan trọng của “xanh hoá”. Cùng với đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp gì để quản lý, xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề, hướng đến phát triển xanh.
Trong những năm gần đây, làng lụa Vạn Phúc và làng gốm Bát Tràng ở Hà Nội đã trở thành điểm du lịch làng nghề thu hút đông đảo khách tham quan, mua sắm. Xanh hoá làng nghề, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường đã giúp cho hai làng nghề này từ làng nghề khói bụi, ô nhiễm chuyển thành làng nghề xanh.
“Sống chung với ô nhiễm” hay “Ra đường là ô nhiễm”… là cụm từ hay được nhắc đến khi nói về các làng nghề hiện nay. Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Nếu trước kia doanh nghiệp chỉ cần sản xuất được sản phẩm rẻ, chất lượng và khéo chào mời thì sẽ bán được hàng, thì nay nếu không xanh hóa sẽ bị đào thải. Muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp chỉ có con đường "xanh hóa" sản xuất. Dù hiểu được tầm quan trọng của chuyển đổi xanh, nhưng nhiều doanh nghiệp hiện còn khá lúng túng và gặp khó khăn trong việc thực hiện “xanh hóa” quá trình sản xuất lẫn kinh doanh.
Hiện nay, thực trạng việc sử dụng năng lượng ở Việt Nam còn rất lãng phí. Cường độ sử dụng năng lượng trên GDP ở nước ta rất cao so với mức bình quân trên thế giới. Và nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì lượng năng lượng nhập khẩu chắc chắn sẽ ngày càng cao. Nhằm ứng phó với thách thức ấy, Chính phủ đã dành sự ưu tiên thích đáng cho việc giải quyết vấn đề năng lượng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mình, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Thời gian qua, các doanh nghiệp, người dân tại nhiều địa phương đã thực hành việc tiết kiệm năng lượng như một phong trào rộng rãi. Tuy nhiên, trong triển khai vẫn còn gặp phải khó khăn vướng mắc gì cần tháo gỡ? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình Cop26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Trong bối cảnh các nước đang triển khai nhiều hành động hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nhiều khu vực và quốc gia phát triển như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã ban hành những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, đòi hỏi hàng hóa sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường và phát triển bền vững, trong đó có sản phẩm dệt may. Là một trong những quốc gia xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, việc "xanh hóa" dệt may là xu thế tất yếu của Việt Nam, bắt buộc doanh nghiệp phải triển khai nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường lớn.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Sự tăng trưởng kinh tế đó diễn ra đồng thời với sự gia tăng nhu cầu năng lượng và đòi hỏi các giải pháp sáng tạo để bảo đảm an ninh năng lượng. Theo đó, phát triển hydrogen được xem là một trong những lựa chọn tối ưu bởi đây không chỉ là một giải pháp lưu trữ năng lượng hiệu quả mà còn giúp thúc đẩy sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời. Vậy định hướng phát triển nguồn năng lượng mới này của Việt Nam ra sao? Việt Nam cần phải làm gì để hiện thực hóa định hướng này?
Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái đất tăng không quá 1,5 độ C tại COP21 và giảm phát thải ròng carbon của quốc gia về “0” vào năm 2050 tại COP26.
Trong xu thế toàn cầu đang chuyển hướng sang phát triển bền vững và thực hành kinh doanh có trách nhiệm, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã có những động thái tích cực đón nhận các mục tiêu liên quan đến ESG (môi trường, xã hội, quản trị). Ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt đã tham gia một cách chủ động vào nỗ lực giảm thiểu carbon, giảm rác thải, cũng như các hoạt động trách nhiệm với cộng đồng như một phần trong các tiêu chí ESG. Thực hành đúng các tiêu chí ESG giúp doanh nghiệp phát triển xanh, bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là một nhân tố cần thiết, quan trọng để thúc đẩy và duy trì nền kinh tế tuần hoàn. EPR được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. EPR cho thấy trách nhiệm của nhà sản xuất không chỉ dừng lại ở sản phẩm, mà mở rộng tới cả quản lý chất thải sau tiêu dùng. Các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm thu hồi, phân loại, tái chế chai, hộp, lọ, túi, bao bì đóng gói sau khi sản phẩm bên trong đã được sử dụng hết. Việc quản lý chất thải sau tiêu dùng thuộc về nơi tạo ra chất thải là hoàn toàn hợp lý, thay vì là việc của Chính phủ như trước đây. Việc thực hiện tốt EPR sẽ là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế và giúp các quốc gia trong đó có Việt Nam sớm đạt được các mục tiêu về môi trường và phát triển bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là việc các nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện trách nhiệm quản lý bao bì sản phẩm của mình khi chúng bị thải bỏ ra môi trường. EPR được đánh giá là điểm mới tiến bộ của Luật Bảo vệ môi trường. Quy định này được kỳ vọng là một giải pháp hiệu quả và rõ ràng nhất, giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa đang rất nhức nhối hiện nay và đặt nền móng cho nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 28 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu vừa diễn ra ở Dubai- Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Chủ đề của Hội nghị lần này là "Gắn kết - hành động - hiệu quả", diễn ra trong bối cảnh thế giới đang trải qua một năm kỷ lục về nhiệt độ và những cam kết về khí hậu hiện nay là không đủ để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của sự nóng lên toàn cầu. Để đạt được những thỏa thuận chung, nhằm hạn chế thực trạng đáng lo ngại về biến đổi khí hậu, Hội nghị lần nay đã phải kéo dài thời gian họp so với dự kiến. Là một trong 200 quốc gia tham gia Hội nghị quan trọng này Việt Nam đã tạo được những dấu gì tại COP 28? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình ngày hôm nay.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan, chưa có biện pháp xử lý triệt để và hợp lý đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí; gây độc cho người và các loại động vật, làm mất cân bằng tự nhiên.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, thông giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của Trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sử dụng các phương tiện giao thông thân thiện, trong đó có xe đạp được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy cần phải làm gì để có thể thúc đẩy phương tiện giao thông vốn được xem là thô sơ này trong bối cảnh hiện nay?
Để giải quyết bài toán phát thải từ sản xuất vật liệu xây dựng, sự ra đời của vật liệu xây không nung được đưa vào sản xuất và sử dụng với mục tiêu giảm bớt tác động bất lợi đến tình hình biến đổi khí hậu, góp phần hiện thực hóa cam kết quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, việc sản xuất gạch không nung từ tro xỉ - phế thải của các nhà máy nhiệt điện là xu hướng mới trong ngành vật liệu xây dựng với nhiều lợi ích kép. Tuy nhiên, việc phát triển những vật liệu này hiện vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang là vấn đề cấp bách của toàn cầu, “Net-zero” – giảm phát thải ròng về bằng 0, chính là công cụ mạnh mẽ để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay. Với Việt Nam, để đạt được mục tiêu Net zero vào 2050, cần vào sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt là vai trò của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu ngành trong việc chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng Carbon thấp, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn...
Theo số liệu thống kê, tại Việt Nam lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày. Đến năm 2025, tỷ lệ này dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi, hệ thống xử lý rác thải; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội.
Theo số liệu thống kê, ước tính, hiện trên cả nước, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi đó, hệ thống công trình hạ tầng đô thị chưa được phát triển đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội. Cần làm gì để tháo gỡ những tồn đọng cũng như có sự đồng bộ về chính sách, quy hoạch, đầu tư?
Ô nhiễm không khí là môt vấn đề đáng báo động ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người cũng như của các loài động thực vật trên thế giới. Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí và của toàn xã hội, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải và lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức cá nhân. Đề xuất này đang nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, quản lý và cộng đồng xã hội liệu thu phí đối với khí thải có khả thi hay không? Và đây có phải là giải pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng không khí hay không?
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang được xem là vấn đề cấp bách của thế giới, xu hướng sản xuất chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh” đã và đang trở thành xu thế toàn cầu. Xanh hóa sản xuất, tiêu dùng góp phần hướng tới tăng trưởng bền vững và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cả về kinh tế lẫn những giá trị vô hình cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, các doanh nghiệp Việt vẫn còn đang gặp nhiều rào cản trong việc chuyển đổi và phát triển sản xuất xanh.
Cải tiến trang thiết bị hay đầu tư hệ thống năng lượng tái tạo, tái sử dụng nguồn nhiệt thải… là cách nhiều doanh nghiệp đang áp dụng để tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên theo dữ liệu công bố của Ngân hàng Thế giới, chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, và cao hơn rất nhiều so với các nền kinh tế hiện đại. Chính vì vậy không ít ý kiến cho rằng hoạt động tiết kiệm năng lượng của Việt Nam vẫn cần phải có thêm cơ chế ràng buộc.
Trước thực trạng tồn chứa tro xỉ, bã thải thạch cao từ các nhà máy nhà nhiệt điện và phân bón trong cả nước, việc tái chế và tái sử dụng tro, xỉ, thạch cao vào sản xuất và các hoạt động kinh tế khác sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nhu cầu năng lượng cho sản xuất và đời sống ngày càng tăng cao, trong khi các nguồn tài nguyên than, dầu, khí đang dần cạn kiệt, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất là góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.Theo thống kê của Bộ Công Thương, dư địa để tiết kiệm năng lượng của Việt Nam, đặc biệt là ngành công nghiệp vẫn còn nhiều. Tiếc là số doanh nghiệp chủ động tiết kiệm năng lượng trong quá trình sản xuất vẫn còn rất hạn chế.
Khi tiết kiệm năng lượng chưa phải là yêu cầu bắt buộc, nhưng trước áp lực về chi phí năng lượng ngày càng tăng, nhiều doanh nghiệp đã chủ động áp dụng nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng. Trong đó có quản lý năng lượng hay còn gọi là ISO 50001. Thực tế cho thấy, việc thiết lập Hệ thống Quản lý năng lượng mang lại những lợi ích lớn. Hầu hết các doanh nghiệp đang triển khai việc tiết kiệm năng lượng hiệu quả đều đang áp dụng giải pháp này.
Cùng với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam xác định tiết kiệm năng lượng là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững.
Theo nghiên cứu, sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Dự báo, phát thải khí nhà kính từ ngành này đến năm 2030 là 125 triệu tấn CO2 tương đương và lên đến 148 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2050, gấp 2,3 lần so với năm 2015.
Sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Theo tính toán, phát thải khí nhà kính từ ngành này có thể lên đến 125 triệu tấn CO2 tương đương vào 2030 và 148 triệu tấn CO2 tương đương vào 2050, gấp 2-3 lần so với năm 2015. Từ thực tế đó, “xanh hóa” quy trình sản xuất vật liệu xây dựng được xem là hướng đi tất yếu trước yêu cầu giảm phát thải, hiện thực hoá mục tiêu Net Zero vào 2050 theo cam kết tại COP26.
Biến đổi khí hậu hiện đang ngày càng tác động tiêu cực đến môi trường sống. Khoa học đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu là do sự nóng lên của trái đất, chủ yếu do lượng khí thải carbon xả ra từ các hoạt động sản xuất tăng mạnh trong những thập kỷ vừa qua.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cùng với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, tạo ra lợi nhuận và đóng góp thuế thì các doanh nghiệp cũng đang thải ra một lượng khí nhà kính vào trong khí quyển góp phần làm cho Trái đất nóng lên và gây nên những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Chính vì vậy "Ai gây ô nhiễm người đó phải trả tiền" đã trở thành một luật chơi mới của thương mại toàn cầu. Khi hàng rào hàng hạch rác thải đang càng được áp dụng, để thích ứng được những qui định mới này, các doanh nghiệp Việt làm gì để giảm rác thải, hay nói cách khác là giảm dấu chân carbon của chính mình? Trong hành trình không mấy dễ dàng này, họ phải đối mặt với những khó khăn và thách thức gì?
Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2022, số đo "dấu chân carbon" (tổng lượng khí nhà kính được tạo ra bởi hoạt động của con người) của Việt Nam là khoảng 344 triệu tấn CO2/năm. Con số này không hề nhỏ, vì nó xếp thứ 17 trên toàn cầu. "Dấu chân" của chúng ta đang to và đậm hơn rất nhiều quốc gia khác trong khu vực. Do đó giảm dấu chân carbon hay nói cách khác là giảm phát thải là yêu cầu không thể trì hoãn, đặc biệt là với các doanh nghiệp. Tuy nhiên đây không phải là việc dễ, nói muốn là có thể làm được ngay.
Không thể phủ nhận những lợi ích kinh tế mà các làng nghề đã và đang đem lại, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhưng trong quá trình phát triển, khá nhiều làng nghề ở nước ta đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí, rác thải, nhất là nước thải… ngày một gia tăng. Ô nhiễm đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khỏe người dân. Giải quyết tình trạng ô nhiễm làng nghề vẫn là bài toán khó, chưa có lời giải.
Làng nghề có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, sự phát triển của các làng nghề cũng gây ra nhiều hệ lụy về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng. Xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là một vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay. Thời gian qua, một số mô hình xử lý nước thải, khí thải làng nghề đã được thực hiện tại các địa phương.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (hay còn gọi là EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau. Vậy hiện các doanh nghiệp của Việt Nam đang thực hiện quy định mới này như thế nào? Họ có gặp phải khó khăn và vướng mắc gì trong quá trình thực thi hay không?
Việt Nam mặc dù chưa phải quốc gia thiếu nước nghiêm trọng nhưng tài nguyên nước đang ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững, nguy cơ suy thoái, cạn kiệt có chiều hướng gia tăng, cùng những tác động của biến đổi khí hậu. Việc khai thác nguồn nước chưa được kiểm soát chặt chẽ, cùng tình trạng ô nhiễm nước mặt ngày càng tăng cả về mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng… Cần phải làm gì để bảo vệ, cải thiện, quản lý và phát triển bền vững nguồn nước? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình COP26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Rác thải nhựa vẫn đang là vấn đề lớn nhất được quan tâm trên toàn cầu, với sản lượng nhựa tăng gấp đôi trong vòng 20 năm. Ô nhiễm nhựa không khác gì một tai họa. Nhiều sản phẩm nhựa có thể tồn tại trong môi trường vĩnh viễn, hủy hoại hệ sinh thái và sự sống của chính con người. Ở nước ta, phong trào chống rác thải nhựa đã được phát động từ gần 5 năm trước. Nhưng cuộc chiến với rác nhựa vẫn gặp nhiều khó khăn, từ kêu gọi, vận động và ban hành chính sách. Tình trạng ô nhiễm nhựa đang lên mức đáng báo động. Vậy cần phải làm gì để đẩy lùi “ô nhiễm trắng”?
Hiện thực hóa cam kết “Net Zero", năm 2023, lần đầu tiên tại Việt Nam, 1.912 cơ sở có phát thải khí nhà kính lớn đã thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu hoạt động phục vụ kiểm kê KNK cấp quốc gia theo quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường. Sau hơn 1 năm triển khai, bên cạnh một số kết quả bước đầu, thì những khó khăn thách thức đặt ra với doanh nghiệp trong việc kiểm kê khí nhà kính là không hề nhỏ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí đang là vấn đề nan giải của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có đến 92% dân số hiện đang sống trong bầu không khí bị ô nhiễm. Điều đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người và môi trường tự nhiên. Cả nước hiện có gần 4,5 triệu ô tô và khoảng 60 triệu mô tô, xe gắn máy đang thải khí và bụi mịn gây ô nhiễm môi trường. Điều đáng nói, hiện nay, chúng ta vẫn chưa thể kiểm soát được khí thải xe máy. Vậy cần lời giải nào cho bài toán ô nhiễm không khí?
Túi nilon luôn là mặt hàng được nhiều người sử dụng và sử dụng nó một cách tràn lan vì giá quá rẻ. Mặt hàng nào người bán cũng sẵn sàng cho người mua vài ba cái để đựng đồ, có khi chỉ là để đựng vài cọng hành, vài quả cà chua…Nguyên nhân chính của việc túi nilon quá rẻ được các chuyên gia cho là vì bị đánh thuế thấp, mức thuế như hiện nay chưa thể thay đổi hành vi người dùng.
Ở nước ta, túi nilon là vật dụng vẫn được sử dụng tràn lan như một thói quen khó bỏ. Nó có tiện lợi không? Câu trả lời chắc chắn là có. Nhưng đi cùng với sự tiện lợi đó lại là thảm họa ô nhiễm môi trường. Để hạn chế túi nilon, áp thuế bảo vệ môi trường với mặt hàng này là một trong những giải pháp đã được thực hiện. Nhưng chính sách này có vẻ 'bất lực' khi giá bán nhiều loại túi nilông còn thấp hơn mức thuế đánh vào nó.
Giao thông vận tải là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với quốc gia có nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sang sử dụng các phương tiện giao thông xanh thân thiện với môi trường được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Cần phải có thêm những chính sách gì để đẩy nhanh quá trình này?Đây là chủ đề chính của chương trình COP26 ngày hôm nay.
Tại hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng và quá tải hạ tầng giao thông. Để hạn chế thực trạng này, việc phát triển giao thông xanh được coi là chìa khóa, là giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề ô nhiễm của đô thị, cải thiện chất lượng không khí một cách bền vững. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Và trong quá trình chuyển đổi sang các phương tiện giao thông xanh, chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nào?
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến đời sống của con người, trong đó có tình trạng xâm nhập mặn… Là quốc gia có trên 3.000km bờ biển, tập trung hàng triệu người sinh sống và khai thác các nguồn lợi từ biển, xâm nhập mặn diễn ra tại hầu hết các địa phương ven biển, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân, đặc biệt tại những cửa sông đổ ra biển.
Phát triển kinh tế tuần hoàn đang là xu thế để phát triển kinh tế xanh và bền vững. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đã có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn như tạo và dùng khí đốt từ chất thải, nước thải trong chăn nuôi, trồng trọt; kết hợp trồng trọt, chăn nuôi thuỷ sản; mô hình nông lâm kết hợp; mô hình vườn, rừng; mô hình tuần hoàn lấy phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm chất xúc tác hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị khác.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng. Một trong những công cụ hiệu quả để đo lường và giảm lượng khí nhà kính gây ra từ hoạt động của con người là tín chỉ carbon rừng. Tín chỉ carbon rừng là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO2) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO2) tương đương.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam trong lĩnh vực lâm nghiệp đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.200 tỉ đồng).
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng nhanh chóng, những năm gần đây, du lịch xanh ngày càng được quan tâm và trở thành định hướng phát triển quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục thị trường đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Phát triển du lịch xanh là chìa khóa để phát triển du lịch có trách nhiệm đảm bảo du lịch bền vững.
Trong cuộc chiến chống Biến đổi khí hậu, du lịch xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu trên toàn cầu, đồng thời đó cũng là một cơ hội để bảo vệ tài nguyên tự nhiên, duy trì cân bằng môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Việt Nam, với vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời và di sản văn hóa độc đáo, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch xanh. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam cần đối mặt với những thách thức và cần có những giải pháp đúng đắn.
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Để giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường, phục hồi chất lượng môi trường làng nghề, thì nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và chủ sản xuất về vai trò của môi trường và tầm quan trọng của “xanh hoá”. Cùng với đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp gì để quản lý, xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề, hướng đến phát triển xanh.
Trong những năm gần đây, làng lụa Vạn Phúc và làng gốm Bát Tràng ở Hà Nội đã trở thành điểm du lịch làng nghề thu hút đông đảo khách tham quan, mua sắm. Xanh hoá làng nghề, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường đã giúp cho hai làng nghề này từ làng nghề khói bụi, ô nhiễm chuyển thành làng nghề xanh.
“Sống chung với ô nhiễm” hay “Ra đường là ô nhiễm”… là cụm từ hay được nhắc đến khi nói về các làng nghề hiện nay. Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Nếu trước kia doanh nghiệp chỉ cần sản xuất được sản phẩm rẻ, chất lượng và khéo chào mời thì sẽ bán được hàng, thì nay nếu không xanh hóa sẽ bị đào thải. Muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp chỉ có con đường "xanh hóa" sản xuất. Dù hiểu được tầm quan trọng của chuyển đổi xanh, nhưng nhiều doanh nghiệp hiện còn khá lúng túng và gặp khó khăn trong việc thực hiện “xanh hóa” quá trình sản xuất lẫn kinh doanh.
Hiện nay, thực trạng việc sử dụng năng lượng ở Việt Nam còn rất lãng phí. Cường độ sử dụng năng lượng trên GDP ở nước ta rất cao so với mức bình quân trên thế giới. Và nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì lượng năng lượng nhập khẩu chắc chắn sẽ ngày càng cao. Nhằm ứng phó với thách thức ấy, Chính phủ đã dành sự ưu tiên thích đáng cho việc giải quyết vấn đề năng lượng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mình, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Thời gian qua, các doanh nghiệp, người dân tại nhiều địa phương đã thực hành việc tiết kiệm năng lượng như một phong trào rộng rãi. Tuy nhiên, trong triển khai vẫn còn gặp phải khó khăn vướng mắc gì cần tháo gỡ? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình Cop26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Trong bối cảnh các nước đang triển khai nhiều hành động hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nhiều khu vực và quốc gia phát triển như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã ban hành những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, đòi hỏi hàng hóa sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường và phát triển bền vững, trong đó có sản phẩm dệt may. Là một trong những quốc gia xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, việc "xanh hóa" dệt may là xu thế tất yếu của Việt Nam, bắt buộc doanh nghiệp phải triển khai nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường lớn.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Sự tăng trưởng kinh tế đó diễn ra đồng thời với sự gia tăng nhu cầu năng lượng và đòi hỏi các giải pháp sáng tạo để bảo đảm an ninh năng lượng. Theo đó, phát triển hydrogen được xem là một trong những lựa chọn tối ưu bởi đây không chỉ là một giải pháp lưu trữ năng lượng hiệu quả mà còn giúp thúc đẩy sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời. Vậy định hướng phát triển nguồn năng lượng mới này của Việt Nam ra sao? Việt Nam cần phải làm gì để hiện thực hóa định hướng này?
Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái đất tăng không quá 1,5 độ C tại COP21 và giảm phát thải ròng carbon của quốc gia về “0” vào năm 2050 tại COP26.
Trong xu thế toàn cầu đang chuyển hướng sang phát triển bền vững và thực hành kinh doanh có trách nhiệm, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã có những động thái tích cực đón nhận các mục tiêu liên quan đến ESG (môi trường, xã hội, quản trị). Ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt đã tham gia một cách chủ động vào nỗ lực giảm thiểu carbon, giảm rác thải, cũng như các hoạt động trách nhiệm với cộng đồng như một phần trong các tiêu chí ESG. Thực hành đúng các tiêu chí ESG giúp doanh nghiệp phát triển xanh, bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là một nhân tố cần thiết, quan trọng để thúc đẩy và duy trì nền kinh tế tuần hoàn. EPR được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. EPR cho thấy trách nhiệm của nhà sản xuất không chỉ dừng lại ở sản phẩm, mà mở rộng tới cả quản lý chất thải sau tiêu dùng. Các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm thu hồi, phân loại, tái chế chai, hộp, lọ, túi, bao bì đóng gói sau khi sản phẩm bên trong đã được sử dụng hết. Việc quản lý chất thải sau tiêu dùng thuộc về nơi tạo ra chất thải là hoàn toàn hợp lý, thay vì là việc của Chính phủ như trước đây. Việc thực hiện tốt EPR sẽ là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế và giúp các quốc gia trong đó có Việt Nam sớm đạt được các mục tiêu về môi trường và phát triển bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là việc các nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện trách nhiệm quản lý bao bì sản phẩm của mình khi chúng bị thải bỏ ra môi trường. EPR được đánh giá là điểm mới tiến bộ của Luật Bảo vệ môi trường. Quy định này được kỳ vọng là một giải pháp hiệu quả và rõ ràng nhất, giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa đang rất nhức nhối hiện nay và đặt nền móng cho nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 28 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu vừa diễn ra ở Dubai- Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Chủ đề của Hội nghị lần này là "Gắn kết - hành động - hiệu quả", diễn ra trong bối cảnh thế giới đang trải qua một năm kỷ lục về nhiệt độ và những cam kết về khí hậu hiện nay là không đủ để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của sự nóng lên toàn cầu. Để đạt được những thỏa thuận chung, nhằm hạn chế thực trạng đáng lo ngại về biến đổi khí hậu, Hội nghị lần nay đã phải kéo dài thời gian họp so với dự kiến. Là một trong 200 quốc gia tham gia Hội nghị quan trọng này Việt Nam đã tạo được những dấu gì tại COP 28? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình ngày hôm nay.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan, chưa có biện pháp xử lý triệt để và hợp lý đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí; gây độc cho người và các loại động vật, làm mất cân bằng tự nhiên.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, thông giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của Trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sử dụng các phương tiện giao thông thân thiện, trong đó có xe đạp được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy cần phải làm gì để có thể thúc đẩy phương tiện giao thông vốn được xem là thô sơ này trong bối cảnh hiện nay?
Để giải quyết bài toán phát thải từ sản xuất vật liệu xây dựng, sự ra đời của vật liệu xây không nung được đưa vào sản xuất và sử dụng với mục tiêu giảm bớt tác động bất lợi đến tình hình biến đổi khí hậu, góp phần hiện thực hóa cam kết quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, việc sản xuất gạch không nung từ tro xỉ - phế thải của các nhà máy nhiệt điện là xu hướng mới trong ngành vật liệu xây dựng với nhiều lợi ích kép. Tuy nhiên, việc phát triển những vật liệu này hiện vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang là vấn đề cấp bách của toàn cầu, “Net-zero” – giảm phát thải ròng về bằng 0, chính là công cụ mạnh mẽ để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay. Với Việt Nam, để đạt được mục tiêu Net zero vào 2050, cần vào sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt là vai trò của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu ngành trong việc chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng Carbon thấp, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn...
Theo số liệu thống kê, tại Việt Nam lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày. Đến năm 2025, tỷ lệ này dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi, hệ thống xử lý rác thải; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội.
Theo số liệu thống kê, ước tính, hiện trên cả nước, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi đó, hệ thống công trình hạ tầng đô thị chưa được phát triển đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội. Cần làm gì để tháo gỡ những tồn đọng cũng như có sự đồng bộ về chính sách, quy hoạch, đầu tư?
Ô nhiễm không khí là môt vấn đề đáng báo động ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người cũng như của các loài động thực vật trên thế giới. Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí và của toàn xã hội, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải và lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức cá nhân. Đề xuất này đang nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, quản lý và cộng đồng xã hội liệu thu phí đối với khí thải có khả thi hay không? Và đây có phải là giải pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng không khí hay không?
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang được xem là vấn đề cấp bách của thế giới, xu hướng sản xuất chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh” đã và đang trở thành xu thế toàn cầu. Xanh hóa sản xuất, tiêu dùng góp phần hướng tới tăng trưởng bền vững và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cả về kinh tế lẫn những giá trị vô hình cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, các doanh nghiệp Việt vẫn còn đang gặp nhiều rào cản trong việc chuyển đổi và phát triển sản xuất xanh.
Cải tiến trang thiết bị hay đầu tư hệ thống năng lượng tái tạo, tái sử dụng nguồn nhiệt thải… là cách nhiều doanh nghiệp đang áp dụng để tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên theo dữ liệu công bố của Ngân hàng Thế giới, chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, và cao hơn rất nhiều so với các nền kinh tế hiện đại. Chính vì vậy không ít ý kiến cho rằng hoạt động tiết kiệm năng lượng của Việt Nam vẫn cần phải có thêm cơ chế ràng buộc.
Trước thực trạng tồn chứa tro xỉ, bã thải thạch cao từ các nhà máy nhà nhiệt điện và phân bón trong cả nước, việc tái chế và tái sử dụng tro, xỉ, thạch cao vào sản xuất và các hoạt động kinh tế khác sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nhu cầu năng lượng cho sản xuất và đời sống ngày càng tăng cao, trong khi các nguồn tài nguyên than, dầu, khí đang dần cạn kiệt, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất là góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.Theo thống kê của Bộ Công Thương, dư địa để tiết kiệm năng lượng của Việt Nam, đặc biệt là ngành công nghiệp vẫn còn nhiều. Tiếc là số doanh nghiệp chủ động tiết kiệm năng lượng trong quá trình sản xuất vẫn còn rất hạn chế.
Khi tiết kiệm năng lượng chưa phải là yêu cầu bắt buộc, nhưng trước áp lực về chi phí năng lượng ngày càng tăng, nhiều doanh nghiệp đã chủ động áp dụng nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng. Trong đó có quản lý năng lượng hay còn gọi là ISO 50001. Thực tế cho thấy, việc thiết lập Hệ thống Quản lý năng lượng mang lại những lợi ích lớn. Hầu hết các doanh nghiệp đang triển khai việc tiết kiệm năng lượng hiệu quả đều đang áp dụng giải pháp này.
Cùng với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam xác định tiết kiệm năng lượng là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững.
Theo nghiên cứu, sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Dự báo, phát thải khí nhà kính từ ngành này đến năm 2030 là 125 triệu tấn CO2 tương đương và lên đến 148 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2050, gấp 2,3 lần so với năm 2015.
Sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Theo tính toán, phát thải khí nhà kính từ ngành này có thể lên đến 125 triệu tấn CO2 tương đương vào 2030 và 148 triệu tấn CO2 tương đương vào 2050, gấp 2-3 lần so với năm 2015. Từ thực tế đó, “xanh hóa” quy trình sản xuất vật liệu xây dựng được xem là hướng đi tất yếu trước yêu cầu giảm phát thải, hiện thực hoá mục tiêu Net Zero vào 2050 theo cam kết tại COP26.
Biến đổi khí hậu hiện đang ngày càng tác động tiêu cực đến môi trường sống. Khoa học đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu là do sự nóng lên của trái đất, chủ yếu do lượng khí thải carbon xả ra từ các hoạt động sản xuất tăng mạnh trong những thập kỷ vừa qua.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, cùng với việc tạo ra công ăn việc làm cho xã hội, tạo ra lợi nhuận và đóng góp thuế thì các doanh nghiệp cũng đang thải ra một lượng khí nhà kính vào trong khí quyển góp phần làm cho Trái đất nóng lên và gây nên những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt. Chính vì vậy "Ai gây ô nhiễm người đó phải trả tiền" đã trở thành một luật chơi mới của thương mại toàn cầu. Khi hàng rào hàng hạch rác thải đang càng được áp dụng, để thích ứng được những qui định mới này, các doanh nghiệp Việt làm gì để giảm rác thải, hay nói cách khác là giảm dấu chân carbon của chính mình? Trong hành trình không mấy dễ dàng này, họ phải đối mặt với những khó khăn và thách thức gì?
Theo Ngân hàng Thế giới, năm 2022, số đo "dấu chân carbon" (tổng lượng khí nhà kính được tạo ra bởi hoạt động của con người) của Việt Nam là khoảng 344 triệu tấn CO2/năm. Con số này không hề nhỏ, vì nó xếp thứ 17 trên toàn cầu. "Dấu chân" của chúng ta đang to và đậm hơn rất nhiều quốc gia khác trong khu vực. Do đó giảm dấu chân carbon hay nói cách khác là giảm phát thải là yêu cầu không thể trì hoãn, đặc biệt là với các doanh nghiệp. Tuy nhiên đây không phải là việc dễ, nói muốn là có thể làm được ngay.
Không thể phủ nhận những lợi ích kinh tế mà các làng nghề đã và đang đem lại, góp phần quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhưng trong quá trình phát triển, khá nhiều làng nghề ở nước ta đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm không khí, rác thải, nhất là nước thải… ngày một gia tăng. Ô nhiễm đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường và sức khỏe người dân. Giải quyết tình trạng ô nhiễm làng nghề vẫn là bài toán khó, chưa có lời giải.
Làng nghề có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông thôn ở nước ta. Bên cạnh những lợi ích về kinh tế, sự phát triển của các làng nghề cũng gây ra nhiều hệ lụy về ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng. Xử lý ô nhiễm môi trường tại các làng nghề là một vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay. Thời gian qua, một số mô hình xử lý nước thải, khí thải làng nghề đã được thực hiện tại các địa phương.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (hay còn gọi là EPR) đã và đang được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới nhằm kiểm soát chất thải thải ra môi trường. Từ ngày 1/1/2024, Việt Nam cũng bắt đầu áp dụng công cụ EPR như một quy định bắt buộc của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Đây được xem là một bước tiến dài và một nỗ lực đáng kể của quốc gia trong việc giữ gìn nguồn tài nguyên cho thế hệ mai sau. Vậy hiện các doanh nghiệp của Việt Nam đang thực hiện quy định mới này như thế nào? Họ có gặp phải khó khăn và vướng mắc gì trong quá trình thực thi hay không?
Việt Nam mặc dù chưa phải quốc gia thiếu nước nghiêm trọng nhưng tài nguyên nước đang ẩn chứa nhiều yếu tố kém bền vững, nguy cơ suy thoái, cạn kiệt có chiều hướng gia tăng, cùng những tác động của biến đổi khí hậu. Việc khai thác nguồn nước chưa được kiểm soát chặt chẽ, cùng tình trạng ô nhiễm nước mặt ngày càng tăng cả về mức độ nghiêm trọng và phạm vi ảnh hưởng… Cần phải làm gì để bảo vệ, cải thiện, quản lý và phát triển bền vững nguồn nước? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình COP26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Rác thải nhựa vẫn đang là vấn đề lớn nhất được quan tâm trên toàn cầu, với sản lượng nhựa tăng gấp đôi trong vòng 20 năm. Ô nhiễm nhựa không khác gì một tai họa. Nhiều sản phẩm nhựa có thể tồn tại trong môi trường vĩnh viễn, hủy hoại hệ sinh thái và sự sống của chính con người. Ở nước ta, phong trào chống rác thải nhựa đã được phát động từ gần 5 năm trước. Nhưng cuộc chiến với rác nhựa vẫn gặp nhiều khó khăn, từ kêu gọi, vận động và ban hành chính sách. Tình trạng ô nhiễm nhựa đang lên mức đáng báo động. Vậy cần phải làm gì để đẩy lùi “ô nhiễm trắng”?
Hiện thực hóa cam kết “Net Zero", năm 2023, lần đầu tiên tại Việt Nam, 1.912 cơ sở có phát thải khí nhà kính lớn đã thực hiện trách nhiệm cung cấp thông tin, số liệu hoạt động phục vụ kiểm kê KNK cấp quốc gia theo quy định mới của Luật Bảo vệ môi trường. Sau hơn 1 năm triển khai, bên cạnh một số kết quả bước đầu, thì những khó khăn thách thức đặt ra với doanh nghiệp trong việc kiểm kê khí nhà kính là không hề nhỏ.
Tình trạng ô nhiễm môi trường không khí đang là vấn đề nan giải của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có đến 92% dân số hiện đang sống trong bầu không khí bị ô nhiễm. Điều đó đã có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người và môi trường tự nhiên. Cả nước hiện có gần 4,5 triệu ô tô và khoảng 60 triệu mô tô, xe gắn máy đang thải khí và bụi mịn gây ô nhiễm môi trường. Điều đáng nói, hiện nay, chúng ta vẫn chưa thể kiểm soát được khí thải xe máy. Vậy cần lời giải nào cho bài toán ô nhiễm không khí?
Túi nilon luôn là mặt hàng được nhiều người sử dụng và sử dụng nó một cách tràn lan vì giá quá rẻ. Mặt hàng nào người bán cũng sẵn sàng cho người mua vài ba cái để đựng đồ, có khi chỉ là để đựng vài cọng hành, vài quả cà chua…Nguyên nhân chính của việc túi nilon quá rẻ được các chuyên gia cho là vì bị đánh thuế thấp, mức thuế như hiện nay chưa thể thay đổi hành vi người dùng.
Ở nước ta, túi nilon là vật dụng vẫn được sử dụng tràn lan như một thói quen khó bỏ. Nó có tiện lợi không? Câu trả lời chắc chắn là có. Nhưng đi cùng với sự tiện lợi đó lại là thảm họa ô nhiễm môi trường. Để hạn chế túi nilon, áp thuế bảo vệ môi trường với mặt hàng này là một trong những giải pháp đã được thực hiện. Nhưng chính sách này có vẻ 'bất lực' khi giá bán nhiều loại túi nilông còn thấp hơn mức thuế đánh vào nó.
Giao thông vận tải là lĩnh vực đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia đặc biệt là đối với quốc gia có nền kinh tế đang trên đà phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sang sử dụng các phương tiện giao thông xanh thân thiện với môi trường được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Cần phải có thêm những chính sách gì để đẩy nhanh quá trình này?Đây là chủ đề chính của chương trình COP26 ngày hôm nay.
Tại hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đều đang phải đối mặt với tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng và quá tải hạ tầng giao thông. Để hạn chế thực trạng này, việc phát triển giao thông xanh được coi là chìa khóa, là giải pháp tối ưu giải quyết vấn đề ô nhiễm của đô thị, cải thiện chất lượng không khí một cách bền vững. Vậy hiện Việt Nam đang xanh hóa các phương tiện giao thông ra sao? Và trong quá trình chuyển đổi sang các phương tiện giao thông xanh, chúng ta đang phải đối mặt với những khó khăn và thách thức nào?
Biến đổi khí hậu đã và đang gây ra những hậu quả vô cùng nghiêm trọng đến đời sống của con người, trong đó có tình trạng xâm nhập mặn… Là quốc gia có trên 3.000km bờ biển, tập trung hàng triệu người sinh sống và khai thác các nguồn lợi từ biển, xâm nhập mặn diễn ra tại hầu hết các địa phương ven biển, gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân, đặc biệt tại những cửa sông đổ ra biển.
Phát triển kinh tế tuần hoàn đang là xu thế để phát triển kinh tế xanh và bền vững. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Việt Nam đã có nhiều mô hình kinh tế tuần hoàn như tạo và dùng khí đốt từ chất thải, nước thải trong chăn nuôi, trồng trọt; kết hợp trồng trọt, chăn nuôi thuỷ sản; mô hình nông lâm kết hợp; mô hình vườn, rừng; mô hình tuần hoàn lấy phế phụ phẩm trong nông nghiệp làm chất xúc tác hoặc tạo ra các sản phẩm có giá trị khác.
Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và ô nhiễm môi trường đang ngày càng gia tăng. Một trong những công cụ hiệu quả để đo lường và giảm lượng khí nhà kính gây ra từ hoạt động của con người là tín chỉ carbon rừng. Tín chỉ carbon rừng là chứng nhận có thể giao dịch thương mại và thể hiện quyền phát thải một tấn khí carbon dioxide (CO2) hoặc một tấn khí carbon dioxide (CO2) tương đương.
Năm 2023 đánh dấu một cột mốc rất quan trọng, lần đầu tiên tại Việt Nam trong lĩnh vực lâm nghiệp đã bán thành công 10,3 triệu tín chỉ carbon rừng (10,3 triệu tấn CO2) thông qua Ngân hàng Thế giới với đơn giá 5 USD/tấn, thu về 51,5 triệu USD (khoảng 1.200 tỉ đồng).
Trước bối cảnh biến đổi khí hậu gia tăng nhanh chóng, những năm gần đây, du lịch xanh ngày càng được quan tâm và trở thành định hướng phát triển quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Du lịch xanh là loại hình du lịch dựa vào tự nhiên và văn hóa, có giáo dục thị trường đóng góp cho nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, có sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương. Phát triển du lịch xanh là chìa khóa để phát triển du lịch có trách nhiệm đảm bảo du lịch bền vững.
Trong cuộc chiến chống Biến đổi khí hậu, du lịch xanh đang trở thành một xu hướng tất yếu trên toàn cầu, đồng thời đó cũng là một cơ hội để bảo vệ tài nguyên tự nhiên, duy trì cân bằng môi trường và thúc đẩy sự phát triển bền vững. Việt Nam, với vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời và di sản văn hóa độc đáo, có tiềm năng lớn để phát triển du lịch xanh. Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam cần đối mặt với những thách thức và cần có những giải pháp đúng đắn.
Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Để giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường, phục hồi chất lượng môi trường làng nghề, thì nhiệm vụ hàng đầu là nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và chủ sản xuất về vai trò của môi trường và tầm quan trọng của “xanh hoá”. Cùng với đó phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp gì để quản lý, xử lý vấn đề ô nhiễm môi trường làng nghề, hướng đến phát triển xanh.
Trong những năm gần đây, làng lụa Vạn Phúc và làng gốm Bát Tràng ở Hà Nội đã trở thành điểm du lịch làng nghề thu hút đông đảo khách tham quan, mua sắm. Xanh hoá làng nghề, gắn sản xuất với bảo vệ môi trường đã giúp cho hai làng nghề này từ làng nghề khói bụi, ô nhiễm chuyển thành làng nghề xanh.
“Sống chung với ô nhiễm” hay “Ra đường là ô nhiễm”… là cụm từ hay được nhắc đến khi nói về các làng nghề hiện nay. Ô nhiễm môi trường ở các làng nghề không phải là câu chuyện mới, nhưng cũng chưa bao giờ là cũ bởi những tác động tiêu cực của nó tới môi trường đến nay vẫn chưa được giải quyết dứt điểm. Việc "xanh hóa" sản xuất được coi là giải pháp giúp giải bài toán ô nhiễm làng nghề, gia tăng hiệu quả kinh tế. Nhưng “xanh hoá” làng nghề hiện vẫn đang gặp nhiều thách thức.
Nếu trước kia doanh nghiệp chỉ cần sản xuất được sản phẩm rẻ, chất lượng và khéo chào mời thì sẽ bán được hàng, thì nay nếu không xanh hóa sẽ bị đào thải. Muốn tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp chỉ có con đường "xanh hóa" sản xuất. Dù hiểu được tầm quan trọng của chuyển đổi xanh, nhưng nhiều doanh nghiệp hiện còn khá lúng túng và gặp khó khăn trong việc thực hiện “xanh hóa” quá trình sản xuất lẫn kinh doanh.
Hiện nay, thực trạng việc sử dụng năng lượng ở Việt Nam còn rất lãng phí. Cường độ sử dụng năng lượng trên GDP ở nước ta rất cao so với mức bình quân trên thế giới. Và nếu cứ tiếp tục tình trạng này thì lượng năng lượng nhập khẩu chắc chắn sẽ ngày càng cao. Nhằm ứng phó với thách thức ấy, Chính phủ đã dành sự ưu tiên thích đáng cho việc giải quyết vấn đề năng lượng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của mình, trong đó, đặc biệt nhấn mạnh đến việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả. Thời gian qua, các doanh nghiệp, người dân tại nhiều địa phương đã thực hành việc tiết kiệm năng lượng như một phong trào rộng rãi. Tuy nhiên, trong triển khai vẫn còn gặp phải khó khăn vướng mắc gì cần tháo gỡ? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình Cop26 của chúng tôi ngày hôm nay.
Trong bối cảnh các nước đang triển khai nhiều hành động hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, nhiều khu vực và quốc gia phát triển như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc… đã ban hành những quy định khắt khe đối với hàng hóa nhập khẩu, đòi hỏi hàng hóa sản xuất phải tuân thủ các yêu cầu về môi trường và phát triển bền vững, trong đó có sản phẩm dệt may. Là một trong những quốc gia xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, việc "xanh hóa" dệt may là xu thế tất yếu của Việt Nam, bắt buộc doanh nghiệp phải triển khai nhằm đạt mục tiêu phát triển bền vững và gia tăng xuất khẩu vào các thị trường lớn.
Nền kinh tế Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Sự tăng trưởng kinh tế đó diễn ra đồng thời với sự gia tăng nhu cầu năng lượng và đòi hỏi các giải pháp sáng tạo để bảo đảm an ninh năng lượng. Theo đó, phát triển hydrogen được xem là một trong những lựa chọn tối ưu bởi đây không chỉ là một giải pháp lưu trữ năng lượng hiệu quả mà còn giúp thúc đẩy sự phát triển của các nguồn năng lượng tái tạo như điện gió, điện mặt trời. Vậy định hướng phát triển nguồn năng lượng mới này của Việt Nam ra sao? Việt Nam cần phải làm gì để hiện thực hóa định hướng này?
Việt Nam đã cam kết cùng cộng đồng quốc tế nỗ lực cho mục tiêu đảm bảo giữ nhiệt độ trái đất tăng không quá 1,5 độ C tại COP21 và giảm phát thải ròng carbon của quốc gia về “0” vào năm 2050 tại COP26.
Trong xu thế toàn cầu đang chuyển hướng sang phát triển bền vững và thực hành kinh doanh có trách nhiệm, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đã có những động thái tích cực đón nhận các mục tiêu liên quan đến ESG (môi trường, xã hội, quản trị). Ngày càng nhiều các doanh nghiệp Việt đã tham gia một cách chủ động vào nỗ lực giảm thiểu carbon, giảm rác thải, cũng như các hoạt động trách nhiệm với cộng đồng như một phần trong các tiêu chí ESG. Thực hành đúng các tiêu chí ESG giúp doanh nghiệp phát triển xanh, bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là một nhân tố cần thiết, quan trọng để thúc đẩy và duy trì nền kinh tế tuần hoàn. EPR được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới để kiểm soát chất thải thải ra môi trường. EPR cho thấy trách nhiệm của nhà sản xuất không chỉ dừng lại ở sản phẩm, mà mở rộng tới cả quản lý chất thải sau tiêu dùng. Các nhà sản xuất thực hiện trách nhiệm thu hồi, phân loại, tái chế chai, hộp, lọ, túi, bao bì đóng gói sau khi sản phẩm bên trong đã được sử dụng hết. Việc quản lý chất thải sau tiêu dùng thuộc về nơi tạo ra chất thải là hoàn toàn hợp lý, thay vì là việc của Chính phủ như trước đây. Việc thực hiện tốt EPR sẽ là động lực để thúc đẩy nền kinh tế tuần hoàn, thúc đẩy ngành công nghiệp tái chế và giúp các quốc gia trong đó có Việt Nam sớm đạt được các mục tiêu về môi trường và phát triển bền vững.
Trách nhiệm mở rộng của nhà sản xuất (EPR) là việc các nhà sản xuất, nhập khẩu thực hiện trách nhiệm quản lý bao bì sản phẩm của mình khi chúng bị thải bỏ ra môi trường. EPR được đánh giá là điểm mới tiến bộ của Luật Bảo vệ môi trường. Quy định này được kỳ vọng là một giải pháp hiệu quả và rõ ràng nhất, giúp giải quyết vấn đề rác thải nhựa đang rất nhức nhối hiện nay và đặt nền móng cho nền kinh tế tuần hoàn tại Việt Nam.
Hội nghị lần thứ 28 của các bên tham gia Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu vừa diễn ra ở Dubai- Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE). Chủ đề của Hội nghị lần này là "Gắn kết - hành động - hiệu quả", diễn ra trong bối cảnh thế giới đang trải qua một năm kỷ lục về nhiệt độ và những cam kết về khí hậu hiện nay là không đủ để ngăn chặn những tác động tồi tệ nhất của sự nóng lên toàn cầu. Để đạt được những thỏa thuận chung, nhằm hạn chế thực trạng đáng lo ngại về biến đổi khí hậu, Hội nghị lần nay đã phải kéo dài thời gian họp so với dự kiến. Là một trong 200 quốc gia tham gia Hội nghị quan trọng này Việt Nam đã tạo được những dấu gì tại COP 28? Đây sẽ là nội dung chính của chương trình ngày hôm nay.
Việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật một cách tràn lan, chưa có biện pháp xử lý triệt để và hợp lý đã để lại những hậu quả nghiêm trọng về ô nhiễm nguồn nước, đất, không khí; gây độc cho người và các loại động vật, làm mất cân bằng tự nhiên.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, thông giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của Trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính.
Giao thông vận tải là yếu tố vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. Tuy nhiên, giao thông cũng là một trong những tác nhân gây ra sự nóng lên của trái đất, suy thoái môi trường, các tác động tiêu cực đến sức khỏe và phát thải khí nhà kính. Trước thực trạng này, việc chuyển đổi sử dụng các phương tiện giao thông thân thiện, trong đó có xe đạp được xem là một trong những giải pháp để giảm phát thải hiệu quả. Vậy cần phải làm gì để có thể thúc đẩy phương tiện giao thông vốn được xem là thô sơ này trong bối cảnh hiện nay?
Để giải quyết bài toán phát thải từ sản xuất vật liệu xây dựng, sự ra đời của vật liệu xây không nung được đưa vào sản xuất và sử dụng với mục tiêu giảm bớt tác động bất lợi đến tình hình biến đổi khí hậu, góp phần hiện thực hóa cam kết quốc tế của Việt Nam. Đặc biệt, việc sản xuất gạch không nung từ tro xỉ - phế thải của các nhà máy nhiệt điện là xu hướng mới trong ngành vật liệu xây dựng với nhiều lợi ích kép. Tuy nhiên, việc phát triển những vật liệu này hiện vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ.
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang là vấn đề cấp bách của toàn cầu, “Net-zero” – giảm phát thải ròng về bằng 0, chính là công cụ mạnh mẽ để chống lại cuộc khủng hoảng khí hậu hiện nay. Với Việt Nam, để đạt được mục tiêu Net zero vào 2050, cần vào sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt là vai trò của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đầu ngành trong việc chủ động chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng Carbon thấp, sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, thúc đẩy mô hình kinh tế tuần hoàn...
Theo số liệu thống kê, tại Việt Nam lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày. Đến năm 2025, tỷ lệ này dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi, hệ thống xử lý rác thải; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng. Đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội.
Theo số liệu thống kê, ước tính, hiện trên cả nước, lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh khoảng 60.000 tấn/ngày, trong đó khu vực đô thị chiếm 60%. Đến năm 2025, tỷ lệ phát sinh chất thải rắn sinh hoạt dự báo tăng 10 - 16%/năm. Trong khi đó, hệ thống công trình hạ tầng đô thị chưa được phát triển đồng bộ; trình độ và năng lực quản lý chưa đáp ứng nhu cầu phát triển của quá trình đô thị hóa, làm nảy sinh nhiều áp lực đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng, đặc biệt là tại các bãi chôn lấp, đã và đang là vấn đề bức xúc đối với xã hội. Cần làm gì để tháo gỡ những tồn đọng cũng như có sự đồng bộ về chính sách, quy hoạch, đầu tư?
Ô nhiễm không khí là môt vấn đề đáng báo động ở Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và đời sống của con người cũng như của các loài động thực vật trên thế giới. Nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm bảo vệ môi trường của các tổ chức cá nhân xả thải gây ô nhiễm môi trường không khí và của toàn xã hội, Bộ Tài chính đã hoàn thiện dự thảo nghị định quy định phí bảo vệ môi trường đối với khí thải và lấy ý kiến đóng góp của các tổ chức cá nhân. Đề xuất này đang nhận được nhiều sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, quản lý và cộng đồng xã hội liệu thu phí đối với khí thải có khả thi hay không? Và đây có phải là giải pháp hữu hiệu để kiểm soát chất lượng không khí hay không?
Trong bối cảnh ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu đang được xem là vấn đề cấp bách của thế giới, xu hướng sản xuất chuyển dịch từ “nâu” sang “xanh” đã và đang trở thành xu thế toàn cầu. Xanh hóa sản xuất, tiêu dùng góp phần hướng tới tăng trưởng bền vững và mang lại nhiều lợi ích thiết thực cả về kinh tế lẫn những giá trị vô hình cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế cũng cho thấy, các doanh nghiệp Việt vẫn còn đang gặp nhiều rào cản trong việc chuyển đổi và phát triển sản xuất xanh.
Cải tiến trang thiết bị hay đầu tư hệ thống năng lượng tái tạo, tái sử dụng nguồn nhiệt thải… là cách nhiều doanh nghiệp đang áp dụng để tiết kiệm năng lượng. Tuy nhiên theo dữ liệu công bố của Ngân hàng Thế giới, chỉ số cường độ năng lượng sơ cấp của Việt Nam cao hơn so với các nước trong khu vực, và cao hơn rất nhiều so với các nền kinh tế hiện đại. Chính vì vậy không ít ý kiến cho rằng hoạt động tiết kiệm năng lượng của Việt Nam vẫn cần phải có thêm cơ chế ràng buộc.
Trước thực trạng tồn chứa tro xỉ, bã thải thạch cao từ các nhà máy nhà nhiệt điện và phân bón trong cả nước, việc tái chế và tái sử dụng tro, xỉ, thạch cao vào sản xuất và các hoạt động kinh tế khác sẽ góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế tuần hoàn.
Nhu cầu năng lượng cho sản xuất và đời sống ngày càng tăng cao, trong khi các nguồn tài nguyên than, dầu, khí đang dần cạn kiệt, phụ thuộc lớn vào nhập khẩu. Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất là góp phần quan trọng bảo đảm an ninh năng lượng, phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường.Theo thống kê của Bộ Công Thương, dư địa để tiết kiệm năng lượng của Việt Nam, đặc biệt là ngành công nghiệp vẫn còn nhiều. Tiếc là số doanh nghiệp chủ động tiết kiệm năng lượng trong quá trình sản xuất vẫn còn rất hạn chế.
Khi tiết kiệm năng lượng chưa phải là yêu cầu bắt buộc, nhưng trước áp lực về chi phí năng lượng ngày càng tăng, nhiều doanh nghiệp đã chủ động áp dụng nhiều giải pháp tiết kiệm năng lượng. Trong đó có quản lý năng lượng hay còn gọi là ISO 50001. Thực tế cho thấy, việc thiết lập Hệ thống Quản lý năng lượng mang lại những lợi ích lớn. Hầu hết các doanh nghiệp đang triển khai việc tiết kiệm năng lượng hiệu quả đều đang áp dụng giải pháp này.
Cùng với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam xác định tiết kiệm năng lượng là một trong những trụ cột quan trọng trong phát triển bền vững.
Theo nghiên cứu, sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Dự báo, phát thải khí nhà kính từ ngành này đến năm 2030 là 125 triệu tấn CO2 tương đương và lên đến 148 triệu tấn CO2 tương đương vào năm 2050, gấp 2,3 lần so với năm 2015.
Sản xuất vật liệu xây dựng là ngành có lượng phát thải khí nhà kính lớn ở Việt Nam. Theo tính toán, phát thải khí nhà kính từ ngành này có thể lên đến 125 triệu tấn CO2 tương đương vào 2030 và 148 triệu tấn CO2 tương đương vào 2050, gấp 2-3 lần so với năm 2015. Từ thực tế đó, “xanh hóa” quy trình sản xuất vật liệu xây dựng được xem là hướng đi tất yếu trước yêu cầu giảm phát thải, hiện thực hoá mục tiêu Net Zero vào 2050 theo cam kết tại COP26.
Biến đổi khí hậu hiện đang ngày càng tác động tiêu cực đến môi trường sống. Khoa học đã chứng minh, một trong những nguyên nhân dẫn đến biến đổi khí hậu là do sự nóng lên của trái đất, chủ yếu do lượng khí thải carbon xả ra từ các hoạt động sản xuất tăng mạnh trong những thập kỷ vừa qua.